泰仑

PET保护膜专家

TELUN PET PROTECTIVE FILM EXPERTS

Tin tức

Thông tin chi tiết

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA GIẤY CHỐNG DÍNH VÀ MÀNG CHỐNG DÍNH

Lượng truy cập

Màng chống dính và giấy chống dính, chỉ khác biệt một chữ nhưng là hai loại có sự khác biệt không hề nhỏ, chúng ta cùng tìm hiểu chi tiết nhé:

Màng chống dính

Màng chống dính là phủ chất chất chống dính silicone thân thiện với môi trường lên bề mặt màng PET, PE, OPP. Nó có thể cho thấy lực chống dính cực kỳ nhẹ và ổn định đối với các chất kết dính hữu cơ nhạy cảm với áp suất khác nhau. Các chất kết dính hữu cơ nhạy cảm với áp suất khác nhau như: keo nóng chảy, keo arylic, chất kết dính nhạy cảm với áp suất của hệ thống cao su... Lực chống dính của màng chống dính là khác nhau, độ dính của sản phẩm cần chống dính là khác nhau, vậy nên lực chống dính được điều chỉnh cho phù hợp để có thể đạt được hiệu quả cao và ổn định trong quá trình bóc.

Phân loại màng chống dính có thể chia theo các chất liệu khác nhau: màng chống dính PE, màng chống dính PET, màng chống dính OPP, màng chống dính tổng hợp (nghĩa là màng do hai chất hoặc nhiều hơn hai chất tạo thành). Căn cứ vào lực chống dính có thể chia thành: Màng chống dính chống dính nhẹ, màng chống dính chống dính trung bình, màng chống dính chống dính cao. Căn cứ vào màu sắc có thể chia thành: Màng chống dính màu đỏ, màng chống dính màu vàng, màng chống dính màu xanh lá, màng chống dính màu xanh dương. Căn cứ vào xử lý bề mặt có thể chia thành: màng chống dính một mặt, màng chống dính hai mặt, màng chống dính không keo silicone, màng chống dính fluoroplastic, màng chống dính phủ corona một mặt, phủ corona hai mặt, màng chống dính mặt nhám, màng chống dính chắn sáng...Màng chống dính một mặt: màng chống dính HDPE (polyetylen áp suất thấp): được sử dụng để dán băng keo và các màng chống thấm khác. Màng chốnh dính LDPE (polyetylen áp suất cao): sử dụng trong trong bao bì sản phẩm cơ khí, bao bì keo nóng chảy, sản phẩm chăm sóc vệ sinh, sản phẩm chống ăn mòn. Màng chống dính BOPP (polypropylene): được sử dụng để dán băng dính, băng dính im lặng. Màng chống dính PET (Polyester): dùng để bảo vệ màng bảo vệ có keo. Màng chống dính hai mặt (màng PE màu xanh lá, màu đỏ): dùng để làm băng dính xốp. Màng chống dính hai mặt PET trong suốt: Màng chống dính chống nắng hai mặt (màng tráng bạc HDPE): chất liệu chống thấm chống nắng được thêm nhôm để chống nắng và làm mát. Màng BOPP tăng cường (BOPET): nâng cao độ bám dính của lớp nhôm và có thể chịu nhiệt đến 100, mục đích sử dụng có thể phân thành: màng phủ dầu silicone/màng chống dính- PET, màng polyester, màng sơn trước, màng khuếch tán ánh sáng, màng in phun màu (phim máy tính), màng in đặc biệt cho ngành công nghiệp điện tử, màng nhám, màng vẽ bản đồ, màng polyester trắng, phim polyester đen, phim PET / polyester / PET Mylar.

Giấy chống dính

Giấy chống dính còn được còn là giấy dầu silicone hoặc giấy chống dính. Nó chủ yếu có tác dụng cách ly các vật thể có dính, chẳng hạn như băng dính. Nó sẽ được bóc ra và bỏ đi sau khi sử dụng. Hiện nay giấy chống dính được sử dụng rộng rãi chủ yếu làm vật dẫn cho các sản phẩm băng dính hoặc chất kết dính. Tất nhiên là ứng dụng trong ngành thực phẩm và y tế sức khỏe không được mô tả chi tiết ở đây.
  Phân loại giấy chống dính có thể dựa vào giấy chống dính có nhựa và giấy chống dính không nhựa; giấy chống dính có tráng silicone và không tráng silicone. Giấy chống dính có nhựa vì chất chống dính có độ thấm nhất định, nếu không có lớp chắn chất chống dính sẽ thấm vào bên trong giấy dẫn đến đóng rắn; còn nếu sử dụng quá  nhiều chất chống dính (giá thành cao) còn nhiều yếu tố khuyết tật khác. Vì cậy cần phải tráng nhựa trên giấy (thường được gọi là cán màng) Trung Quốc thường sử dụng hạt polyetylen (PE) để cán cà chỉ số nóng chảy thường được yêu cầu khoảng 7, các hạt PE trong nước thường được sử dụng 1C7A của Yanshan Petrochemical. Nó được chia thành: giấy chống dính phủ một mặt nhựa, phủ hai mặt nhựa; Giấy chống dính không có nhựa chủ yếu có glassine, CCK... và các loại giấy chống dính được xử lý đặc biệt khác.

  1. Giấy chống dính có tráng phủ là giấy chống dính được sản xuất bằng cách phủ lên lớp giấy nền một chất giải phóng bề mặt. Bởi vì trên mặt của giấy có nhiều sợi, tráng lớp phủ phải đạt một lượng nhất định để đảm bảo rằng không bị thấm, dầu silicon không bị thấm vào trong giấy, không bị bong tróc. Thông thường định lượng giấy chống dính có tráng phủ là 16g/m2. Tại Ôn Châu đã sản xuất được loại 11-13g/m2, khá gần với số liệu tráng phủ của nước ngoài. Về mặt lý thuyết, miễn là băng dính có thể bóc kéo ra khỏi giấy chống dính thì số lượng tráng phủ thấp bao nhiêu cũng được. Giấy chống dính tráng phủ cũng chia làm tráng phủ một mặt và hai mặt. Thông thường giấy chống dính một mặt là tráng phủ một mặt, đương nhiên cũng có loại giấy chống dính một mặt được phủ hai lần, vì mặt chống dính tráng thường có độ dày khoảng 20g, mặt không chống dính thường mỏng hơn 15g, như vậy mới đạt được sự cân bằng trên giấy chống dính. Nếu là loại giấy tránh phủ hai mặt với định lượng là 22g sẽ phù hợp làm giấy chống dính hai mặt. Giấy chống dính hai mặt thường đước làm từ giấy bột gỗ, đặc biệt trong ngành công nghiệp điện tử. Nếu sử dụng giấy làm từ bột giấy rơm sẽ có rất nhiều vụn giấy và dễ bị gãy mép trong quá trình sử dụng. Tất cả các loại giấy bột gỗ thường được gọi là giấy kraft, chẳng hạn như: giấy kraft màu tự nhiên, giấy kraft trắng, giấy kraft vàng, giấy kraft xanh. Tất nhiên là cũng có giấy keo 2 mặt được hoàn toàn tự bột giấy gỗ làm giấy nguyên sinh, cũng có giấy ảnh làm giấy nguyên sinh và giấy tráng phủ bìa cứng trắng, nâu làm màng nguyên sinh. Miễn là độ bền của giấy tráng phủ nhựa có thể đáp ứng được yêu cầu là cán không có điểm bị thấm, cán đều và phẳng thì bất kỳ loại giấy nào cũng có thể được sử dụng làm giấy nguyên sinh.
  2. Giấy chống dính Glassine, giấy nguyên sinh Glassine là loại giấy chống dính được sản xuất bằng cách phủ lên lớp chống dính. Glassine vì trở lên ép sáng đặc biệt thích hợp cho các nhà máy cắt khuôn vì nó gia công rất chuẩn và độ cứng giấy tốt. Vì nhà máy sản xuất giấy chống dính trong nước của Trung Quốc chỉ có thể sản xuất định lượng 60-80g, mà các nhà máy dập sử dụng chủ yếu định lượng trên 100g như 120g, 140g. Nó có độ trong suốt nhất định, độ cứng tốt và hiệu suất cắt khuôn tốt.  Tất cả đều dựa vào nguồn giấy nguyên sinh nhập khẩu, nhưng số lượng giấy nguyên sinh nhật khẩu tối thiểu là 20 tấn/container và phải đặt trước 3 tháng và đơn hàng phải được thanh toán trước 100%. Các nhà cung cấp giấy chống dính lớn coi đây không phải là vấn đề lớn.
  3. Giấy chống dính CCK và giấy nguyên sinh CCK là một loại giấy chống dính được sản xuất bằng cách phủ lên bề mặt một lớp đất sét đặc biệt sau đó phủ chất chống dính. Vì khả năng chịu nhiệt cao, nó được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp sợi carbon. Đất sét trên bề mặt của giấy nguyên sinh CCK rất dễ phá hủy keo silicon, cho nên có rất ít nhà sản xuất giấy chống dính CCK tại Trung Quốc có thể đáp ứng được yêu cầu này.
  4. Các loại giấy chống dinh khác cũng có một số loại được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp khác, cũng có sử dụng loại không phủ chống dính. Ví dụ các xưởng in tem nhãn sẽ phủ một lớp dầu bóng lên nơi cần chống dính, keo dán cũng sẽ có khả năng nhả keo nhất định, đương nhiên cần hiệu suất của keo kém. Nếu không, khả năng chống dính này là vô ích. Ngoài ra, một số giấy chống dính được sản xuất với một số loại keo đặc biệt và các công thức khác chiếm một phần nhỏ trong thị trường chung. Hiện nay, giấy chống dính chính hãng (giấy chống dính với chất lượng ổn định và nguồn cung cấp đảm bảo) ít được sử dụng trong ngành công nghiệp điện tử, chủ yếu sử dụng giấy loại 2 (đã qua sử dụng 1 lần ở nước ngoài hoặc giấy xuất xưởng với chất lượng kém). Các nhà phủ keo chủ yếu sử dụng giấy chính hãng. Chất chống dính chủ yếu dựa trên chất chống dính silicon, được bổ sung bởi chất giải phóng flo hữu cơ và một số chất giải phóng không phải silicon khác. Các loại keo chính có thể tiếp xúc với giấy chống dính silicone là sol nóng, keo dán nhạy áp lực acrylic gốc dầu (thường được gọi là: keo dầu) và keo dán nhạy áp lực acrylic loại nhũ tương (thường được gọi là: keo nước). Giấy giải phóng flo chủ yếu tiếp xúc với chất kết dính nhạy cảm với áp suất silicon (thường được gọi là: keo silicon).

Chất giải phóng silicone có thể được chia thành hai loại: gốc dung môi và không dung môi, hoặc có thể được chia thành dầu silicone đóng rắn bằng nhiệt, dầu silicone đóng rắn bằng tia UV và dầu silicone đóng rắn bằng tia điện tử theo phương pháp đóng rắn. Tỷ lệ sử dụng dầu silicone gốc dung môi chiếm hơn 60% thị trường giấy chống dính nói chung. Tuy nhiên, do giá dầu tăng mạnh gần đây, chi phí dung môi tăng cao, và nhiều công ty đã bắt đầu chuyển sang sử dụng dầu silicon không dung môi. Chi phí phủ của dầu silicon gốc dung môi là thấp nhất. Ví dụ, keo dầu K-50, keo khô 60 gam, cần phủ lớp phủ silicon khô gốc dung môi với lượng 0,80 gam trên mét vuông. Nếu sử dụng silicon khô không dung môi, lượng sơn phủ phải là 1,30 gam trên mét vuông. Do hạn chế về thiết bị và để giảm chi phí sơn phủ, nhiều nhà cung cấp sơn chống đã thêm dung môi vào dầu silicone không chứa dung môi để giảm hàm lượng silicone nhằm giảm lượng sơn phủ, điều này khá rủi ro. Mà dầu silicon không dung môi không thích hợp cho keo dầu. Vì dầu silicone cần làm bay hơi dung môi và đông đặc ở một nhiệt độ nhất định, nên thường được sử dụng nhất là dầu silicone được đóng rắn bằng nhiệt. Tất nhiên, nhiều nhà sản xuất trong nước đã sử dụng phương pháp đóng rắn bằng tia UV, chủ yếu được sử dụng trong lớp phủ phim. Do màng không thể chịu được nhiệt độ, thông thường sẽ ưu tiên sử dụng phương pháp đóng rắn bằng tia UV, tuy nhiên đối đắt tiền, bất luận là đầu tư thiết bị hay là chi phí gia công đều tăng. Chi phí đóng rắn bằng tia UV gấp một đến hai lần so với quá trình đóng rắn bằng nhiệt.

Công nghệ xử lý bằng chùm tia điện tử hiện chỉ được sử dụng bởi các nhà sản xuất giấy da. Theo báo cáo, chỉ có một nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc có thiết bị này. Một số chỉ số kỹ thuật của giấy chống dính như sau: lượng silicon phủ khô, lực bóc ở nhiệt độ bình thường, lực bóc lão hóa và tỷ lệ bám dính còn lại. Lượng silicon khô bao phủ là lượng chất giải phóng được phủ trên vật liệu, tính bằng gam trên mét vuông. Thông thường lượng phủ của dầu silicone gốc dung môi là từ 0,30 đến 0,80 gam trên một mét vuông và lượng phủ của dầu silicon không dung môi là từ 0,80 gam trên mét vuông. Cần có thiết bị kiểm tra chuyên nghiệp để kiểm tra lượng sơn phủ. Lượng dầu silicone phủ ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả bóc tách. Lượng lớp phủ cao hơn có thể phủ dày lớp giấy nguyên sinh và đảm bảo sự phân bố đồng đều của dầu silicone. Lượng dầu phủ silicone thấp hơn dễ bị thấm và các hiện tượng khác, dẫn đến bong tróc. Một số nhà cung cấp lớp chống dính giảm lượng dầu silicone phủ, dẫn đến bong tróc nặng hơn và tạo ra giấy chống dính độ bóc tách nặng hơn, khá rủi ro khi sử dụng. Các nhà sản xuất đáng tin cậy có thể điều chỉnh lực bóc bằng cách điều chỉnh công thức hóa học mà không làm giảm lượng dầu silicon phủ. Công nghệ này cần thời gian tích lũy lâu dài, không phải một sớm một chiều.

Lực bóc ở nhiệt độ bình thường, dữ liệu về lực bóc thu được bằng các phương pháp thử tiêu chuẩn ở nhiệt độ bình thường, đơn vị là N / 25mm, có thể chuyển đổi thành gam. Thông thường 0,10N / 25mm, nghĩa là lực bóc dưới 10 gam, thường được gọi là bóc nhẹ; 0,20N / 25mm, nghĩa là lực bóc dưới 20 gam, thường được gọi là lực bóc trung bình; 0,35 ~ 0,45N / 25mm, nghĩa là 35 ~ 45 gam thường được gọi là bóc cao; 0,60 ~ 0,80N / 25mm, nghĩa là lực bóc 60 ~ 80 gam thường được gọi là bóc nặng; tất nhiên, cũng có 0,03 ~ 0,04N / 25mm, tức là lực bóc 3 ~ 4 gam, thường được gọi là bóc nhẹ; cũng có 1.00N / 25mm, nghĩa là lực bóc trên 100 gam, thường được gọi là bóc quá nặng. Lực bóc lão hóa, dữ liệu lực bóc đo được sau khi lão hóa, thường lớn hơn một chút so với lực bóc ở nhiệt độ bình thường. Tỷ lệ bám dính còn lại đề cập đến lực giải phóng giấy sau lần lột đầu tiên và lần lột thứ 2. Dữ liệu thu được sau khi tính toán chủ yếu phản ánh hiệu quả đóng rắn của dầu silicone. Tỷ lệ bám dính còn lại của dầu silicone đóng rắn bằng tia cực tím nói chung là 100% và tỷ lệ bám dính còn lại của dầu silicone đóng rắn bằng nhiệt lên đến 90%. Sẽ thật đáng ngờ nếu một số nhà cung cấp tuyên bố rằng lớp lót chống dính của họ còn lại 100%. Nếu xảy ra quá trình khử ion, tỷ lệ bám dính còn lại của loại giấy giải phóng này thường quá 70%.

Việc kiểm tra các chỉ số kỹ thuật trên giấy chống dính là một việc khá phức tạp. Thông thường các nhà máy điện tử, băng dính chỉ có thể kiểm tra một số thông số. ối với lượng dầu silicone phủ, nó thường không xuất hiện trong báo cáo kỹ thuật của nhà cung cấp. Việc lựa chọn giấy chống dính là vì lượng phủ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng ứng dụng của keo. Keo nước yêu cầu trọng lượng lớp phủ của dầu silicone thấp hơn, trong khi keo dầu và sol nóng yêu cầu trọng lượng lớp phủ của dầu silicone cao hơn. Do tính thẩm thấu và tính phá hủy cao nó thường được phủ số lượng cao.

Các nhà máy sản xuất lớp phủ thường sử dụng giấy chống dính có trọng lượng lớp phủ cao, trong khi các nhà máy cán màng thường sử dụng giấy nhả có trọng lượng lớp phủ trung bình. Đối với cán màng nhiệt cũng cần chọn loại giấy nhả có trọng lượng lớp phủ cao, màng bảo vệ (keo nước) chỉ cần loại giấy có trọng lượng lớp phủ thấp, và loại giấy có trọng lượng lớp phủ trung bình là phù hợp với màng bảo vệ keo dầu, giấy chống dính có trọng lượng lớp phủ cao không thích hợp cho màng bảo vệ. Do điều kiện khí hậu, nhà máy dập nên chọn loại giấy chống dính có lực bóc lớn vào mùa đông và lực bóc nhẹ hơn vào mùa hè. Đối với nhu cầu đặc biệt thì các nhà máy dập nên liên hệ với nhà cung cấp để được nghiên cứu sâu và đáp ứng tốt nhất. Nếu không sẽ gây lãng phí rất nhiều phế liệu. Giấy loại 2 không phải là không thể sử dụng, nếu là nơi có yêu cầu thấp vẫn có thể dùng, nếu không thì ở Trung Quốc sẽ không xuất hiện những nhà cung cấp giấy loại 2.

页面版权所有:苏州泰仑电子科技材料有限公司 网站建设:中企动力   苏州     苏ICP备15043687号-1